Tháng 11 ước xuất khẩu 11 nghìn tấn, giá trị đạt 20 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu chè 11 tháng đầu năm ước đạt 121 nghìn tấn, giá trị đạt 206 triệu USD, giảm 5,2% về khối lượng nhưng lại tăng 0,3% về giá trị so cùng kỳ năm 2013. Hiệp hội Chè Việt Nam (Vitas) ước tính, tổng lượng chè XK cả năm khoảng 135.000 tấn, trị giá 235 triệu USD, giảm gần 10% về lượng nhưng tăng khoảng 6% về giá trị so với năm trước.
Pakistan - thị trường tiêu thụ nhiều nhất các loại chè của Việt Nam, đạt 27.596 tấn, tương đương 64,37 triệu USD trong 10 tháng, chiếm 34,57% trong tổng kim ngạch (tăng 60,4% về khối lượng và tăng 85,71% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013).
Đứng sau thị trường Pakistan là các thị trường như: Đài Loan 27,15 triệu USD, Nga 15,74 triệu USD, Trung Quốc 15,29 triệu USD, Hoa Kỳ 9,96 triệu USD.
Nhìn chung, xuất khẩu chè sang phần lớn các thị trường đều sụt giảm kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó, thị trường Indonesia có tốc độ giảm mạnh nhất, giảm 55,77% về khối lượng và giảm 57,38% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013.
Pakistan là một trong những thị trường tiêu thụ chè lớn, đầy tiềm năng tại khu vực Nam Á và chè Việt đang trở thành một trong những lựa chọn hàng đầu của người tiêu dùng tại quốc gia này. Loại chè được xuất khẩu chủ yếu sang Pakistan là chè đen, đây cũng là loại chè xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với khoảng 80% tổng sản lượng xuất khẩu.
Để thúc đẩy đưa mặt hàng chè Việt Nam thâm nhập sâu rộng hơn vào thị trường Pakistan, thời gian qua Bộ Công Thương đã tổ chức nhiều hoạt động xúc tiến thương mại như các buổi giao lưu trực tuyến nhằm khắc phục sự thiếu thông tin, giúp doanh nghiệp hai bên có điều kiện tiếp xúc ban đầu, khắc phục rủi ro về khách hàng, chi phí đi lại...
Hiệp hội Chè – Vitas cho rằng năm 2014 là một năm khó khăn với ngành chè. Các DN XK phải đối mặt với nhiều rào cản tại các thị trường, nhất là trong đáp ứng yêu cầu về an toàn chất lượng sản phẩm. Điều đáng chú ý nhất trong năm là giá chè XK tương đối ổn định, dẫn tới giá trị XK cả năm tăng nhẹ. Điều này là bởi năm nay lượng chè xanh có giá XK cao được xuất đi nhiều hơn. Ước cả năm, chè xanh chiếm tới 60% trong tổng lượng chè XK, tăng hơn 10% so với năm trước. Các thị trường NK chủ yếu của chè Việt vẫn là Đài Loan, Trung Quốc, Mỹ, Pakistan, Indonesia, Malaysia…
Theo Cục Chế biến nông, lâm, thủy sản và nghề muối (Bộ NN&PTNT): Mặc dù tính chung từ đầu năm đến nay, giá XK chè có tăng nhẹ nhưng Việt Nam vẫn đang là một trong những nước có giá XK chè thấp nhất thế giới. Nguyên nhân là bởi chất lượng chè XK Việt Nam chưa đảm bảo, nhiều sản phẩm còn chứa tồn dư thuốc bảo vệ thực vật ở mức cao. Bên cạnh đó, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các đơn vị sản xuất, XK chè cũng là lý do quan trọng khiến giá chè XK ngày càng bị “dìm” xuống.
Việt Nam hiện có khoảng 500 cơ sở chế biến chè với những quy mô khác nhau nhưng hầu như chưa có sự liên kết nào giữa các cơ sở này để tạo ra giá bán thống nhất với các đối tác nước ngoài. Giá XK tùy thuộc vào mối quan hệ của từng đơn vị với các đối tác khiến cho giá bán ra thiếu đồng nhất và ổn định.
Thông tin liên hệ:
CÔNG TY TNHH TEA PARIS - VIỆT NAM
Địa chỉ: Xã Minh Đài, Huyện Tân Sơn, Tỉnh Phú Thọ
Điện thoại: 02103 875 555
Email: [email protected]
Website: www.teaparis.net